Những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014
2015-03-09 00:00:00.0
Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi được thông qua có hiệu lực từ 01/01/2015, với 10 chương, 133 điều quan hệ hôn nhân gia đình có những quy định pháp lý điều chỉnh về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Luật quy định những vấn đề như: Kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm dứt hôn nhân; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình; cấp dưỡng; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...Cụ thể một số điểm mới của Luật như sau:
1.
Nâng độ tuổi kết hôn
Nâng
độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18 như quy định tại Luật Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ
đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên. Sở dĩ có việc
thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì
quy định này là không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đó là, theo Bộ luật Dân sự năm 2005 người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý… Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì đương sự là
người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như
vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và
làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu
cầu ly hôn thì phải có người đại diện.
2.
Áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình
Luật
Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập quán
trong hôn nhân gia đình so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, theo đó,
Điều 7 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có
thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái
với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được
áp dụng”. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với nhiều tập quán tốt đẹp, đa dạng,
phong phú, nội dung quy định tại Điều 7 thể hiện việc tôn trọng những tập quán
tốt đẹp, đồng thời cũng làm rõ điều kiện để tập quán được áp dụng, nhấn mạnh
việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật. Chính phủ sẽ có Nghị định nhằm đảm bảo tính khả
thi của quy định này.
Pháp
luật hiện hành chỉ quy định “vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc
hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp
thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến
bộ”. Việc quy định chung chung tạo nhiều kẽ hở, bất cập, gây khó khăn cho tòa
án khi xét xử các vụ án về hôn nhân gia đình, mà phải áp dụng các phong tục tập
quán.
3.
Cho phép mang thai hộ
Như
vậy, Luật Hôn nhân và gia đình đã chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ
với mục đích nhân đạo (cụ thể từ Điều 93 đến Điều 98), song phải được thực hiện
trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Theo đó, các cặp vợ
chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con có quyền nhờ người mang thai hộ khi
có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc
người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý,
tâm lý. Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc “người mang thai hộ phải là
người thân thích cùng hàng để ngăn ngừa tình trạng thương mại hóa việc mang
thai hộ”. Theo đó, người được nhờ mang thai hộ phải có đủ 5 điều kiện: Là người
thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh
con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang
thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng và đã được
tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Ngoài
ra, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi cũng có các điều khoản để giải quyết
những rắc rối phát sinh. Đáng chú ý là việc sinh con do mang thai hộ không tính
vào số con (của người mang thai hộ) theo chính sách dân số kế hoạch hóa gia
đình. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang thai
hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Trong trường hợp
bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu
Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ
chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang
thai hộ…
Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo phải bảo đảm các điều kiện:a) Lập
thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy
quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa
thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Việc ủy quyền cho người thứ ba không được công nhận. Trong trường hợp thỏa
thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập
cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm
quyền của cơ sở y tế này; b) Có thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên
mang thai hộ theo các điều kiện có liên; c) Quyền, nghĩa vụ về hỗ trợ để bảo
đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh
con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối
với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các
quyền, nghĩa vụ; d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi
phạm cam kết theo thỏa thuận.
Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo: (i) Người mang thai hộ, vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi
là bên mang thai hộ) có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe
sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con đến khi giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai
hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ theo
thỏa thuận; (ii) Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định
của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho
bên nhờ mang thai hộ. Thời gian hưởng chế độ thai sản ít nhất là 60 ngày kể từ
ngày sinh. Việc mang thai hộkhông bị ràng buộc về thực hiện chính sách dân số,
kế hoạch hóa gia đình đối với lần mang thai hộ; (iii) Trong trường hợp có khó
khăn về bảo đảm sức khỏe sinh sản, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ
mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe và sự phát triển của
thai nhi phù hợp với quy định của pháp luật y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản,
người phụ nữ mang thai hộ có quyền quyết định về việc tiếp tục hay không tiếp
tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật y tế về chăm sóc sức khỏe sinh
sản.
Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo: (i) Trong trường hợp bên mang thai
hộ có khó khăn về chi trả các chi phí thực tế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
thì bên nhờ mang thai hộ phải hỗ trợ những chi phí thực tế đó; (ii) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra, ngay cả trong
trường hợp bên mang thai hộ chưa giao con cho họ. Người mẹ nhờ
mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động
và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 6 tháng tuổ; (iii)
Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang
thai hộ chậm nhận con, không nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm
sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này, nếu
gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường theo thỏa thuận; không
có thỏa thuận thì theo quy định của Bộ luật dân sự; (iv) Trong trường hợp bên
nhờ mang thai hộ chết thì con vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di
sản của bên nhờ mang thai hộ; (v) Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các
thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo
quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai
hộ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không còn mà bên mang thai
hộ không nhận nuôi đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho đứa trẻ theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không nhận con và bên mang
thai hộ không tự nguyện chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người
giám hộ cho đứa trẻ, bên nhờ mang thai hộ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con.
Việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ chính
đáng của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả
khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
4.
Không cấm kết hôn đồng giới
Về
hôn nhân đồng giới, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn
đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt. Luật Hôn nhân và gia
đình sửa đổi năm 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”
nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
tính" (khoản 2 Điều 8). Như vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể kết
hôn, tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây là
sự nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong
tình hình xã hội hiện nay.
5. Công việc nội trợ được coi như lao
động có thu nhập
Điểm mới đáng lưu ý trong luật sửa đổi lần
này là những quy định về giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của phụ nữ và con. Điểm
khác biệt so Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành là luật mới đã quy định rõ
công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung
được xem như lao động có thu nhập.
6.
Tài sản của vợ chồng
Khi
kết hôn: Quy định chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định chưa rõ
ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản
chung, tài sản riêng. Luật hiện hành chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai,
còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được
đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Luật Hôn nhân
và gia đình sửa đổi năm 2014 quy định cụ thể: Việc thỏa thuận phải được lập
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này
vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự
tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.
Được
thỏa thuận về tài sản khi ly hôn: Cụ
thể, về tài sản chung của vợ chồng, theo luật thì đó là tài sản do vợ hoặc
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập hợp pháp khác trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung
và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với quyền sử
dụng đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực
hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Luật cũng quy định rõ, trong trường hợp
không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Bên
cạnh đó, Luật mới cũng quy định cụ thể cách giải quyết về con, tài sản, nghĩa
vụ và hợp đồng các bên khi nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn là căn cứ vào thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp không có thỏa
thuận, thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của
pháp luật có liên quan. Không tính thời gian chung sống như vợ chồng trước khi
đăng ký kết hôn vào thời kỳ hôn nhân.
7.
Bổ sung thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn
Luật
Hôn nhân và gia đình mới cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
ly hôn. Và từ ngày 1-1-2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân
của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có
thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng.
8.
Nghĩa vụ đối với con khi ly hôn
Vợ,
chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau
khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là từ đủ 9
tuổi trở lên), thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Quy
định “về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các
bên không có thoả thuận khác” được sửa thành “con dưới 36 tháng tuổi được giao
cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác
phù hợp với lợi ích của con”.
Với
những điểm đổi mới như trên, Luật Hôn
nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 sẽ giải quyết được những quan hệ phức tạp
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no,
bền vững và hạnh phúc.
BAN BIÊN TẬP